1. Theo tục thờ bài vị ngoài miền Bắc thì các bài vị chân linh thờ gia tiên ( hay còn gọi là Linh Vị). Thì trên mỗi thẻ bài Linh Vị thường viết hoặc khắc thờ đích danh 1 người đã mất hoặc viết chung cả vợ (khi vợ đã mất).
Những vị cai trị chúng sinh, như chư Phạm Thiên (Brahma), Đế Thích Thiên (Indra), Vi Nữu Thiên (Visnu), Tự Tại Thiên (Isvara) và chư Thiên vĩ đại khác, có thọ mạng kéo dài cảû một đại kiếp, với dáng vóc hay tầm nghe đo được tới hàng nhiều lý (một lý= 4,8km), và chư vị
Chư vị có đạt hay không, [thì khi] tu luyện chưa kết thúc, thì đều là cơ hội, cũng đều là con số chưa biết. Lý Hồng Chí 19 tháng Chạp, 2012 Ghi chú: (ghi chú của người dịch Trung Việt, chỉ có tác dụng tham khảo).
Dưới đây là giải thích ý nghĩa từ chư vị trong từ Hán Việt và cách phát âm chư vị từ Hán Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ chư vị từ Hán Việt nghĩa là gì .
Bát hương ban thờ Gia tiên có thể xem là “cầu nối tâm linh” giữa người sống hướng tới các Chư vị Thần linh và Gia tiên, Tiền Tổ. Do được lên hương trong nhiều dịp (Lễ tết, ngày Sóc, ngày Vọng, ngày giỗ…), trong một thời gian dài và liên tục, nên lượng chân hương
. Từ điển Phật học được sắp xếp theo thứ tự từ A đến Z Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa Kim Linh. Ý nghĩa của từ Kim Linh theo Tự điển Phật học như sau Kim Linh có nghĩa là 金鈴 linh vàng. Linh s ghaṇṭā, 鈴 là một loại pháp khí dùng đánh lên trước bàn Phật khi tụng kinh; được chế bằng loại đồng xanh, đồng đỏ. Loại pháp khí này còn có tên là Kim Cang Linh 金剛鈴, Kim Linh, hình như cái chuông, bên trong có treo quả cầu đồng. Trong Mật Giáo, khi tu pháp, Linh được dùng để làm kinh động, tỉnh giác chư tôn, hay khiến cho chư vị hoan hỷ. Cho nên Linh có 3 nghĩa là làm kinh động tỉnh giác, làm cho hoan hỷ, và thuyết pháp. Khi làm cho Linh kêu vang để cúng dường chư tôn, được gọi là Chấn Linh 振鈴. Linh có 5 loại là Độc Cổ Linh 獨鈷鈴, Tam Cổ Linh 三鈷鈴, Ngũ Cổ Linh 五鈷鈴, Bảo Linh 寶鈴, Tháp Linh 塔鈴. Kim Cang Linh là hình Tam Muội Da 三昧耶 của Kim Cang Linh Bồ Tát 金剛鈴菩薩. Như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên 五燈會元, CBETA No. 1565 quyển 20 có câu “Giải mãnh hổ hạm hạ kim linh, kinh quần động chúng; thủ thương long huyệt lí minh châu, quang thiên chiếu địa 解猛虎頷下金鈴、驚群動眾、取蒼龍穴裏明珠、光天照地, tháo dưới cằm hổ dữ kim linh, kinh động quần chúng; lấy châu sáng trong huyệt rồng xanh, sáng tỏ trời đất.” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục 高峰龍泉院因師集賢語錄, CBETA No. 1277 cũng có câu “Thượng lai chấn động Kim Linh, hô chiêu nhữ đẳng quỷ chúng, nhiên thả nhữ đẳng tùng Địa Ngục trung xuất, nghiệp đạo trung lai, sạ văn luy bạt chi thanh, tất khởi kinh hoàng chi niệm 上來振動金鈴、呼召汝等鬼眾、然且汝等從地獄中出、業道中來、乍聞鏍鈸之聲、必起驚惶之念, nhân nay chấn động Kim Linh, mời gọi quỷ chúng các người, như vậy các người từ trong Địa Ngục ra, từ trong nghiệp đạo đến, vừa nghe tiếng não bạt, tất khởi niệm kinh hoàng.” Trên đây là ý nghĩa của từ Kim Linh trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật. Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà. Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online Kiếp tai 劫災 Kiếp tận 劫盡 ka la sai ma thích tinh xá Ka-la-lã Ka-la-lã 柯羅邏 Ka-la-pa Ka-na Kha-la Ka-na ề-bà Ka-pa-la-pa kakushin HỖ TRỢ CHÚNG TÔI Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng. STK 117 002 777 568 Ngân hàng Công thương Việt Nam Nội dung Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp Cùng lan toả Đạo Pháp.
Trang Đầu Mục Lục Hướng Dẫn Mười một môn đồ, đi qua xứ Ga-li-lê, lên hòn núi mà Đức Chúa Jêsus đã chỉ cho. Khi môn đồ thấy Ngài, thì thờ lạy Ngài; nhưng có một vài người nghi ngờ. Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh-linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế. Ma-thi-ơ 2816-20 Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự giao thông của Đức Thánh-linh ở với anh em hết thảy! 2 Cô-rinh-tô 1314. Nhiều người khi đọc Kinh-thánh thấy có khi nói đến Thần, rồi khi khác lại nói đến Thánh-linh. Chữ Thần làm cho người ta nghĩ đến thần linh trong ý nghĩa của người đời, tức là hồn ma, còn chữ Thánh-linh là danh hiệu dùng cho một trong ba ngôi Đức Chúa Trời. Có người đề nghị là sao không gọi đó là ảnh hưởng của Đức Chúa Trời? Nhưng điều quan trọng cần lưu ý chính là Thánh-linh là một thân vị a person. Khi chú trọng đến ảnh hưởng hoặc quyền năng hay là sức mạnh của Thánh-linh là đã quên Thánh-linh là một thân vị. Và như thế là làm giảm uy danh của Thánh-linh, cho rằng Ngài chỉ là một cái gì đó mà thôi như dụng cụ chẳng hạn. Trong đời thường, khi nào ta đối xử với người nào, coi người ấy như đồ vật là làm mất phẩm giá của người ấy. Đối với Thánh-linh thì cách đối xử như thế còn nguy hại hơn. Điều khó của chúng ta là khi nói đến thân vị nào, chúng ta phải liên tưởng đến một gương mặt và một thân hình mà gương mặt ấy thuộc về. Như khi ta nghĩ đến một người thân hay người bạn, ta mường tượng ra một hình dáng và một bộ mặt. Khi nói Thánh-linh là một thân vị, ta thấy hơi khó. Vì làm sao hình dung ra Thánh-linh như thế nào? Kinh-thánh dùng các biểu tượng để mô tả các công việc của Thánh-linh, các biểu tượng đó là chim bồ câu, một cơn gió mạnh, các lưỡi trong dạng lửa cháy, rượu mới, dầu dùng để xoa trên tóc. Nhưng tất cả các biểu tượng này cho ta thấy Thánh-linh như thế nào chứ không cho biết Thánh-linh là ai? Nghĩa là những hình ảnh về hoạt động hay là việc Thánh-linh đem lại như an bình, sức mạnh và niềm vui. Ta nói Thánh-linh là một thân vị nhưng lại không thấy được Ngài như thế nào. Không ai vẽ ra được Thánh-linh với hình dạng nào. Nhưng Ngài vẫn là một thân vị a person. Nhưng nan đề đó là đối với chúng ta, là do giới hạn của con người với nhận thức rất lờ mờ. Nếu chúng ta quan sát thật kỹ về những gì liên quan đến thân vị, chúng ta sẽ nhận thấy rằng gương mặt và hình dạng thật ra không phải là trọng tâm. Có lẽ chiếc máy điện thoại có thể minh chứng điểm này. Mỗi ngày chúng ta thường có những cuộc đối thoại với nhiều người, nhất là trong thương mại, mà chúng ta chưa bao giờ gặp mặt. Dù cho đi đường gặp những người đó chúng ta cũng không biết là ai. Có những người giao dịch với nhau lâu trở thành bạn. Người này có thể mường tượng ra có thân vị như thế nào. Những gì người ấy ưa thích hay là ghét; những thái độ cơ bản của người ấy; những sở trường và sở đoản Như thế chỉ với tiếng nói và sức mạnh của lời nói mà gần như ta biết được nguyên cả thân vị của một người. Thánh-linh cũng vậy. Chúng ta không trông thấy hay đụng chạm được vào Ngài; nhưng do nghe lời Ngài trong Kinh-thánh và lưu ý đến những gì chính Chúa Giê-xu và các môn đệ của Ngài nói về Ngài, chúng ta có thể hiểu được và biết được thân vị đó. Thánh-linh là một thân vị. Kinh-thánh nói rõ điểm này bằng nhiều cách trước tiên là chú trọng vào thần tính của Thánh-linh; thứ hai, bằng cách liên kết công việc của Thánh-linh với công việc của Chúa Giê-xu; và thứ ba, mô tả nhiệm vụ của Thánh-linh trong Hội-thánh. Thánh-linh là Đức Chúa Trời Lời Chúa Giê-xu dạy các môn đệ của Ngài giúp ta thấy rõ điểm đầu tiên này Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh-linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế. Ma-thi-ơ 2816-20. Ta lưu ý câu " hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Thánh-linh mà làm phép báp tem cho họ". Lúc ấy các tân môn đệ của Chúa Giê-xu vừa xa rời thần tượng, rũ bỏ quá khứ thờ nhiều tà thần, rất cảm kích khi được tuyên xưng đức tin qua lễ báp tem. Vì khi ấy họ công khai tin Chúa là Chân Thần duy nhất. Nhưng Chúa Giê-xu cũng đã giới thiệu cho các môn đệ một tri thức sâu hơn phong phú hơn về Chân Thần, đó là Đức Chúa Trời có Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Thánh-linh một Đức Chúa Trời nhưng có ba đấng bậc. Đức Chúa Cha là Đấng thiêng liêng cao cả thì không cần bàn cãi nhiều. Chúa Giê-xu đã dạy các môn đệ Ngài cầu nguyện "Lạy Cha chúng con ở trên trời, danh Cha được tôn thánh." Xưng nhận như thế là đủ hiểu Cha rất thiêng liêng và cao cả. Chúa Giê-xu tự xác nhận thần tính của Ngài. Đại mạng lệnh là bằng cớ đầy đủ về điểm này "Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta." Vì vậy Chúa mới có thẩm quyền sai mọi người đi truyền giáo. Ngài lại hứa là sẽ cùng đi với họ khắp nơi cho đến khi tận thế. Lệnh Chúa Giê-xu ban truyền còn nói đến Thánh-linh, như là mối nối giữa Cha và Con. Trong câu kể trên, ta phải hiểu Thánh-linh cũng là Đức Chúa Trời. Khi Chúa Giê-xu dạy nhân danh Cha Con và Thánh-linh để làm báp tem, ta phải hiểu rằng ba vị nêu danh đều là Đức Chúa Trời cả. Nhưng vẫn chỉ là một Chân Thần mà có ba ngôi vị. Thánh-linh như thế là một Đấng bậc, một ngôi vị xác định, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời trong Kinh-thánh nói đến là Đức Chúa Trời có ngôi vị, có cá thể. Nếu Đức Chúa Trời, đấng đã lựa chọn ông Áp-ra-ham và gia đình ông ta để phục vụ Ngài, dẫn từng bước họ đi , trả lời khi họ cầu xin, và ban cho họ Lời của Ngài, không phải là một Đấng bậc, một ngôi vị, thì Đức Chúa Trời ấy không xác thực. Yêu thương, chọn lựa, cảm xúc, suy nghĩ, hiểu biết, lập kế hoạch, chăm sóc, nhớ là những phẩm tính của một cá thể, một ngôi vị. Đức Chúa Trời có tất cả những phẩm tính này. Thánh-linh là một ngôi vị, là một cá thể, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Thánh-linh tiếp tục công nghiệp của Chúa Giê-xu Những lời sau cùng của Chúa Giê-xu cho các môn đệ Ngài có câu này "Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta. Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi." Giăng 1415-17 Như thế Thánh-linh là Đấng Yên Ủi mà Chúa Giê-xu đưa đến, việc làm của Thánh-linh là "Nhưng Đấng Yên ủi, tức là Thánh-linh mà Cha sẽ nhân danh ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều ta đã phán cùng các ngươi." Giăng 1426. Dạy bảo và nhắc cho nhớ là công việc của một cá thể, một ngôi vị như Chúa Giê-xu nhưng không còn giới hạn trong thể xác. Khi Chúa Giê-xu ở Sê-sa-rê Phi-líp với các môn đệ thì lúc ấy Ngài không thể cùng ở Bê-tha-ni trong nhà Ma-thê và Ma-ri được. Đây là một phần giới hạn của Chúa Giê-xu khi Ngài bằng lòng vào thế gian làm người, đó là mỗi lần chỉ có mặt ở một nơi mà thôi. Thánh-linh thì khác, dù cũng có ngôi vị như Chúa Giê-xu nhưng không bị giới hạn không gian và thời gian. Vì thế khi giáo hội tăng trưởng và lan rộng khắp nơi Thánh-linh có thể có mặt mọi nơi cùng một lúc. Như thế Thánh-linh tiếp tục công nghiệp của Chúa Giê-xu và hiệu quả hơn. Như thế Thánh-linh là một cá thể, một ngôi vị, vì Ngài cũng chính là Đức Chúa Trời. Ngài là Đấng tiếp tục công nghiệp trên đất của Chúa Giê-xu. Thánh-linh phục vụ Hội-thánh Trong lời chúc phước cho cộng đồng dân Chúa tại thành Cô-rinh, Sứ đồ Phaolô đã nói "Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự giao thông của Thánh-linh ở với anh em hết thảy!" 2 Cô-rinh-tô 1314. Ta thấy câu này nói đến từng cá nhân của Ba-ngôi Đức Chúa Trời. Ai có thể tha thứ và ban ân huệ ngoài ra Chúa Giê-xu? Ai có thể biểu lộ tình thương của Ngài ngoài một cá thể thần linh như Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Con Ngài xuống thế gian để hoàn thành việc cứu rỗi cho chúng ta? Và ai có thể thúc đẩy mối tương giao giữa con dân Chúa ngoại trừ Thánh-linh là Đấng làm cho Hội-thánh kết chặt với nhau trong một kinh nghiệm chung về lòng tin và sự tha thứ? Mối tương giao mà Thánh-linh làm cho phát sinh chính là niềm vui mà anh chị em tin Chúa cùng cảm thấy. Đây không phải tương giao vì cùng chung văn hóa, cùng quan điểm chính trị, hay cùng thỏa thuận trong một cuộc thương mãi nào. Đây cũng không phải một cuộc tương giao vì cùng sở thích và quan niệm về kiểu y phục hay mode ăn mặc. Đây chính là tương giao thân thiết trong niềm tin, trong việc tôn thờ Chúa, trong việc tuân hành lời Chúa dạy và trong nhiệm vụ. Cuộc tương giao như thế chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể tạo ra và duy trì cho mà thôi. Đây chính là tương giao của Thánh-linh, cá nhân Thánh-linh, Thánh-linh có ngôi vị và đấng bậc, hoạt động trong tâm hồn những người đã tin Đức Chúa Trời nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu. Để kết thúc, có ba điều ta cần nói 1. Vì Thánh-linh là Đức Chúa Trời, nên những gì trong Kinh-thánh nói về phẩm tính của Đức Chúa Trời đều có thể áp dụng cho Thánh-linh được. Những phẩm tính như tình thương, thánh khiết, quyền năng, thiện lành, thành tín của Đức Chúa Trời chính cũng là của Thánh-linh. Thánh-linh là Đấng tiếp tục công nghiệp đã được Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu khởi đầu, cũng có cùng quan tâm và khả năng. 2. Vì Thánh-linh thực hiện và tiếp tục công nghiệp của Chúa Giê-xu, chúng ta có thể coi như Chúa Giê-xu hiện diện giữa vòng chúng ta là người tin Chúa để đáp ứng mọi nhu cầu căn bản của chúng ta. Thánh-linh nhắc nhở chúng ta về tình thương của Chúa Giê-xu, thực hiện sự tha thứ của Chúa Giê-xu cho chúng ta, cho chúng ta được tràn đầy quyền năng của Chúa Giê-xu, sửa dạy chúng ta bằng cái khôn ngoan và chân lý của Chúa Giê-xu, lấy niềm an ủi của Chúa Giê-xu an ủi chúng ta. Nghĩa là chính người của Chúa Giê-xu với cùng quyền năng và thương cảm đang có mặt giữa chúng ta. Ngài dạy chúng ta qua lời Kinh-thánh, Ngài uốn nắn ý chí của chúng ta cho thuận theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. 3. Vì Thánh-linh phục vụ trong Hội-thánh, nên chúng ta có thể có mối tương giao với Đức Chúa Trời và với anh em chị em cùng niềm tin. Thánh-linh nâng chúng ta lên cao hơn những thành kiến, làm cho quân bình những gì ta thích và không thích, gắn bó chúng ta bằng tình thương và quan tâm của người tin Chúa. Chúng ta hãy vui hưởng mối tương giao Thánh-linh đem đến vì Ngài làm cho mọi ngăn cách được san bằng, và dạy chúng ta rằng chúng ta là một khối qua quyền năng của Ngài. Vì Thánh-linh là Đức Chúa Trời, Ngài còn có cá tính riêng còn hơn chúng ta nữa. Vì Ngài chính là Đức Chúa Trời nên ngày đêm làm việc để biến hóa chúng ta thành những con người mà Đức Chúa Trời muốn thấy. TinLanh Twitter
Hương linh là cách gọi khác của linh hồn trong Phật giáo. Khác với dân gian tin rằng con người sau khi chết đi linh hồn sẽ sống vĩnh hằng ở một thế giới khác thì Phật giáo cho rằng hương linh sẽ đầu thai chuyển kiếp vào 1 trong 6 cõi chứ không tồn tại mãi mãi ở dạng vô hình như vậy. Có nên gọi hồn để biết hương linh đã siêu thoát hay chưa? Hương linh là cách gọi khác của linh hồn trong Phật giáo. Khác với dân gian tin rằng con người sau khi chết đi linh hồn sẽ sống vĩnh hằng ở một thế giới khác thì Phật giáo cho rằng hương linh sẽ đầu thai chuyển kiếp vào 1 trong 6 cõi lục đạo luân hồi chứ không tồn tại mãi mãi ở dạng vô hình như vậy. Theo quan điểm của Phật giáo, tùy theo phước nghiệp nhiều đời của mỗi người mà sau khi người đó chết sẽ được tái sinh vào cõi nào. Nếu người đó từng rất có phước, làm nhiều việc thiện lành và công đức lớn thì linh hồn đó được sinh lên cõi trời. Nếu người đó quyền lực lớn nhưng bản ngã nhỏ, lúc sống không tu tập đạo đức nhưng có nhiệt huyết, có công với đất nước có thể trở thành vị thần Atula nằm lơ lửng giữa sườn núi cung mây, tuy tốt bụng nhưng vẫn còn sân hận. Những người có phước, có duyên đầu thai sớm thì sẽ đi đầu thai làm người. Người nào bản ngã lớn, có quyền lực lớn, làm các điều ác rất lớn khi chết đọa làm súc sinh lớn như trâu, bò, ngựa… Và người nghiệp rất nặng, gây rất nhiều tội ác thì có thể đọa làm súc sinh hoặc đọa địa ngục. Còn phần lớn một người vừa có phước vừa có tội thì sau khi chết sẽ tồn tại một thời gian trong cõi vô hình, ta hay gọi chung là hương linh. Các hương linh có phước được tự do đi lại thì có thể về thăm gia đình, được phép vào nhà nếu chủ nhà tác ý cho phép, được thân hình đẹp, được người sống cúng cho ăn. Niệm Phật A Di Đà cầu siêu bạt độ chư hương linh Đời sống của một hương linh Thế giới cõi âm rất phức tạp, tuy gần gũi quanh ta nhưng mà xa cách không thể nhìn thấy được. Sau khi chết, hương linh đó biết rõ nguyên nhân vì sao mình chết và thường quanh quẩn quanh mồ mả của mình hoặc nơi mình chết vì nhiều hương linh còn chấp thân, tiếc nuối thân xác của mình. Nếu không chấp thân thì hương linh sẽ theo cái nguyện của mình mà ra đi. Còn nếu chấp thân thì chịu đau khổ, cô độc,… Khi chết, tất cả mọi thứ người đó đều không mang qua thế giới bên kia được trừ bệnh tật, phước và nghiệp. Một người trước khi chết bị bệnh, bị đau nhức, yếu ớt thì chết rồi vẫn còn mang những thân nghiệp đó. Phước báo, công đức và nghiệp họ đã gieo nhiều đời nhiều kiếp vẫn theo họ. Các hương linh có phước được tự do đi lại thì có thể về thăm gia đình, được phép vào nhà nếu chủ nhà tác ý cho phép, được thân hình đẹp, được người sống cúng cho ăn. Các hương linh không có phước thì thân hình rất ghê gớm, ít được tự do, bị nhiều hương linh khác ăn hiếp, vất va vất vưởng, đói khát, hoảng sợ, chạy tìm miếng ăn, trốn đầu này đầu kia,… Đặc biệt là những người chết sớm do nghiệp nặng mà bị sát hại, hay do tự quyên sinh thì khi trở thành hương linh rất thê thảm, lạnh buốt, đói khát, đau khổ tột cùng. Ở cõi âm hương linh rất khó làm phước. Nhiều hương linh có phước thấy cõi âm dễ chịu hơn cõi dương vì ở cõi âm họ biết được tâm người sống, có thể báo mộng cho người sống, hương linh còn biết được một số bí mật của người sống, họ tự tại muốn đi đâu thì đi, họ không còn sợ cái chết. Niệm Phật A Di Đà siêu độ hương linh Mối quan hệ giữa người sống và hương linh Có những người lúc sống không biết đạo lý, sống hung hăng tàn bạo thì khi chết làm hương linh hung dữ, họ tác động vào tâm của người sống. Nếu mình không giữ được tâm mình thì nhiều khi ý nghĩ của mình do người khác tác động. Ngược lại, nếu mình siêng đi chùa lễ Phật, huân tu đạo đức thì mình hay có những suy nghĩ đúng đạo lý nhờ Chư Phật gia hộ. Nhiều hương linh có phước thấy cõi âm dễ chịu hơn cõi dương vì ở cõi âm họ biết được tâm người sống, có thể báo mộng cho người sống, hương linh còn biết được một số bí mật của người sống, họ tự tại muốn đi đâu thì đi, họ không còn sợ cái chết. Cũng có những người khi còn sống không có gia đình, họ có thương yêu ai đó có thể khi chết họ đi theo người đó mãi để âm thầm gia hộ cái này gọi là nợ tiền duyên. Và cũng có những người bị chết oan ức nhưng do không hiểu nhân quả nghiệp duyên nên hương linh đó tìm cách báo thù, có khi còn xâm nhập vào thân của người sống. Khi người sống hướng về người chết để tụng kinh cầu siêu với tâm hiền lành, từ ái niệm Phật thì tâm của hương linh bị cuốn theo, hòa theo và hương linh sẽ chuyển tâm từ từ. Đến khi tâm của hương linh được thuần thì những vị Thánh trong thế giới vô hình sẽ hướng dẫn hương linh tiếp tục tin hiểu nhân quả, tội phước. Từ đó hương linh sẽ phát nguyện làm điều tốt như là âm thầm yểm trợ người sống làm việc lành và ủng hộ các chùa. Dần dần hương linh cũng tu tập và có phước, bắt đầu phát tâm trở lại cõi người làm gì đó chuộc lại lầm lỗi ngày xưa, hương linh sẽ đi đầu thai. Đầu thai làm người rồi, thời gian đầu họ sống cũng gặp khó khăn nhưng sau đó năng nổ tu tập và làm phước nhờ họ mang đạo lý từ cõi âm trở lại. Trong đời sống hàng ngày ta gắng công tu tập, lễ Phật, ngồi thiền, phát tâm mạnh mẽ, tu tập đạo đức sâu dày và làm phước thì đức ta lớn dần, quỷ thần cũng phải khiếp sợ và nghe theo…. Mối liện hệ giữa linh hồn và bào thai Trách nhiệm của người sống đối với hương linh Ta nên gửi hương linh về các Chùa có tâm linh cao để họ có điều kiện tu tập và làm phước. Hàng ngày ta nên cúng thí thực cho hương linh kèm theo bài kinh Cúng Thí Thực để họ được nghe kinh thọ thực, được nghe đạo lý. Ta cần kiên trì cúng thí thực cho hương linh trong nhiều năm. Một người bình thường sau khi chết thì phải cúng thí thực từ 3 đến 5 năm mới đi đầu thai được. Nhưng cũng có những người phải 10-20-50-100 năm mới đi đầu thai. Ta phải tôn trọng hương linh và quán từ bi yêu thương họ. Tụng kinh cầu siêu thường xuyên cho hương linh mau siêu thoát. Phóng sanh, làm phước hồi hướng công đức cho hương linh. Có những điều kiêng kỵ là ta không nên đốt vàng mã cho người chết. Vì vàng mã là giấy, đốt là cháy, hương linh hoàn toàn không hưởng được gì từ đống tro tàn đó, khi đó ta cũng tổn phước vì hoang phí. Nếu ta muốn cho hương linh có quần áo, thức ăn, vật dụng… thì ta đem quần áo, thức ăn, vật dụng,… bố thí cho những người nghèo khó xứng đáng rồi hồi hướng công đức lại cho hương linh.– Mở pháp cho hương linh nghe. Nếu ta có duyên thấy được hương linh thì bình tĩnh, không hoảng sợ, niệm Phật và quán từ bi yêu thương họ, lúc đó nhờ Chư Phật gia hộ nên ta có thêm uy lực vượt qua ảo ảnh và không sợ hãi nữa. Vai trò của linh hồn trong sự luân hồi và tái sinh Nên làm gì khi gặp hương linh? Nếu ta có duyên thấy được hương linh thì bình tĩnh, không hoảng sợ, niệm Phật và quán từ bi yêu thương họ, lúc đó nhờ Chư Phật gia hộ nên ta có thêm uy lực vượt qua ảo ảnh và không sợ hãi nữa. Những lúc khó khăn, bất trắc hiểm nguy, hoảng sợ khi gặp hương linh ta hay cầu Phật gia hộ. Không phải Phật không linh thiêng, không gia hộ nhưng Phật nhắc ta lấy từ bi làm gốc, phải yêu thương chúng sinh trước, yêu thương những hương linh đó, đừng để câu niệm Phật che mất những tâm nguyện của ta, rồi sau đó Phật sẽ giúp ta vượt qua khó khăn. Trong đời sống hàng ngày ta gắng công tu tập, lễ Phật, ngồi thiền, phát tâm mạnh mẽ, tu tập đạo đức sâu dày và làm phước thì đức ta lớn dần, quỷ thần cũng phải khiếp sợ và nghe theo….
chư vị chân linh là gì