Với đề xuất tăng lương cơ sở dự kiến từ tháng 7-2023 sẽ giúp giảm bớt phần nào khó khăn cho đội ngũ này - Ảnh: TỰ TRUNG. Chính phủ đang trình Quốc hội điều chỉnh tăng lương cơ sở từ mức 1,49 triệu đồng lên mức 1,8 triệu đồng/tháng, tăng khoảng 20,8% lương cơ PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ nêu rõ: "Cải lương hiện nay đang chịu sự tác động to lớn của xu hướng toàn cầu hóa, cơ chế thị trường và sự bùng nổ của công nghệ thông tin. Sự đa dạng, phong phú các loại hình nghệ thuật mang tính giải trí hiện đại đã và đang lấn át các loại hình nghệ thuật truyền thống, trong đó có cải lương". Với quy trình thực hiện cải cách theo nhiều bước, các quy định về tiền lương của giai đoạn 2003-2020 có xu hướng đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ; vừa không tạo ra gánh nặng cho quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động, đảm bảo tính hợp lý và hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao động. Ngày 26-4-2016, Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 08-CTr/TU về "Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo bước chuyển mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2020" và sau 29/12/2017 | 13:00. PGS Bùi Hiền chia sẻ về công trình nghiên cứu cải tiến chữ cái tiếng Việt. "Tôi đã hoàn thiện công trình nghiên cứu, tôi đã làm được việc tôi tâm nguyện suốt 40 năm nay", PGS Bùi Hiền chia sẻ về công trình nghiên cứu cải tiến chữ quốc ngữ của ông . BÀI LÀM Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu Nam ai, Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác. Người dân Nam Bộ cũng hãnh diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn làm say lòng người. Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách khác miền Nam của xứ Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền Nam có một đời sống nhàn hạ, sung túc. Ruộng cò bay thẳng cánh. Cá đầy sông, rạch. Không lo đói nhờ đất đai phì nhiêu, rau và lúa gạo đầy đồng. Người miền Nam mang dòng máu của những dân đến sinh sống trên đất Nam kì đầu tiên. Dân ca miền Nam phối hợp những đặc trưng của dân ca miền Bắc, miền Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của nhạc Cao Miên, Trung Hoa, Chàm, Do đó, dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như tiết tấu qua những điệu lí, điệu hò, nói thơ. Cải lương đầu thế kỉ XX làm phong phú thêm cho những làn điệu dân ca đất phương Nam. Cùng với sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới… sự ra đời cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu của lịch sử, Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông nghiệp lúa nước và nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điểm thẩm mĩ phương Tây thì sự ra đời của cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc và sự du nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ thuật cải lương là âm nhạc tài tử Nam Bộ. Thời ấy, tuồng hát bội không còn giữ vị trí độc tôn trong thưởng thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong các cuộc vui như lễ cưới, lễ hỏi, đám tiệc, đám giỗ… Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của cải lương là nhạc tài tử biến thành “ca ra bộ” tại nhà Ông Cai tổng Tống Hữu Định Ông Phó 12 tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại oán với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, cô Ba Định vai Nguyệt Nga, ông giáo Diệp Minh Ký đóng vai Bùi Kiệm, ông Giáo Du vai Bùi ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sinh ra loại “Ca ra bộ”. Sự khởi đầu của hình thức này được đánh dấu tại cuộc trình diễn của nhóm ca nhạc tài tử trên sân khấu hộp trong đó có cô Ba Đắc tại Hội chợ thuộc địa tại Pháp. Sau này ca ra bộ phát triển như một trào lưu tại Nam Bộ. Tiết mục được trình diễn rất thô sơ trên một bộ ván gõ, diễn viên vừa ca, vừa diễn với điệu bộ, động tác minh họa. Ca ra bộ chính là gạch nối giữa hình thái âm nhạc và hình thái sân khấu và sau này trở thành hát cải lương. Sau đó nhờ những soạn giả như ông Trương Duy Toản, Mộc quán Nguyễn Trọng Quyền… viết lại từng mảng các chuyện tích xưa đế diễn ca ra bộ, với hình thức đối ca, liên ca rối kết hợp lại thành những vở tuồng cải lương đầu tiên như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều… Cải lương hình thành và phát triển rất mau nhờ những đóng góp của những bậc tài danh như Năm Phỉ, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Nở, Phùng Há… Bước đầu hình thành, cải lương giống như tên gọi cũng chịu ảnh hưởng đủ thứ nghệ thuật đầu Ngô mình Sở. Tình trạng hỗn độn trong trang phục, hay phong cách diễn vân thường xảy ra, chẳng hạn diễn viên đóng Lã Bố mang giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tàu, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm mất bản sắc dân tộc dần dần bị đào thải. Nhờ các tác giả có tri thức, có tài năng mà sân khấu cải lương hình thành hai dòng tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau này các nhà nghiên cứu sân khấu khẳng định là cải lương có hai phương pháp phương pháp hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ, nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch nói là loại hình nghệ thuật mới thì cải lương lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc qua phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua phương pháp tả thực tâm lý. Sân khấu cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là do kết hợp một cách tài tình hai phương pháp hiện thực tâm lí và biểu hiện tả ý đó. Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam, mà còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt truyện do tác giả kịch bản đặt ra. Về nghệ thuật biểu diễn Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội. Dùng giọng thật, tự nhiên. Không có những giọng mé, giọng hầu v. v…Ban nhạc tài tử lúc hòa tấu ở phòng khách đàn hát sa-lông thường gồm có đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn độc quyền, sáo hay tiêu, mỗi thứ nhạc cụ chỉ có một. Có người hát thì thêm phách hay song lang. Khi trở thành dàn nhạc cải lương thì số lượng nhạc cụ trở thành quan trọng hơn trống ban, song lang, cặp não bạt, đồng la, đàn cò, đàn gáo, đàn kìm, đàn tam, đàn đoản, đàn tranh. Lại có thêm sáo, tiêu, kèn củn, kèn nàm. Sau này có thêm đàn độc huyền, đàn xến, ghi-ta phím lõm còn gọi là lục huyền cầm, tam thập lục, vi-ô-lông, hạ uy cầm. Cây lục huyền cầm hay ghi-ta phím lõm có nhiều khả năng về cung bậc, âm thanh trầm bổng lại có thể luyến láy do phím móc sâu. Từ 40 năm nay, ghita phím lõm giữ vai trò chính trong dàn nhạc cải lương, và sau này đàn ghi ta phím lõm có gắn điện giống ghi-ta điện. Ngoài dàn nhạc cố, còn có thêm dàn nhạc Tây phương với piano, saxo, clarinette, trống, ghi-ta điện, và đàn synthe hay organ. Những bài bản được nghe trong tuồng cải lương đều phát xuất từ dân ca cổ nhạc miền Nam phần lớn, và những làn điệu trong nhạc đàn tài tử, một loại nhạc thính phòng miền Nam. Có thể phân loại một số bài bản thông dụng như Từ những điệu ca dân gian như những điệu Lý chẳng hạn từ điệu Lý ngựa ô biến thành điệu cải lương Ô Mã 18 câu nhịp đôi. Từ những bài nhạc lễ cung đình trong hát bội sau được cải biên dùng trong cải lương như Vũ Biền Xuất Đôi, Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc, vv.. Từ những sáng tác mới sau này khi có ca ra bộ, hát cải lương như Văn Thiên Tường, Tứ Đại Oán, Trường Tương Tư, Lưu Thủy Trường, Ái Tử Kê, Vọng Cổ, vv.. Từ những điệu hát lấy từ nhạc nước ngoài nhất là từ Trung Quốc, nhạc Quảng Đông xuyên qua các bài Xang Xừ Líu, Khốc Hoàng Thiên, Liễu Xuân Nương, Bản Tiêu, Lạc Âm Thiều, Đã nói đến sân khấu Cải lương, không thể nào không nói đến bản nhạc “đinh” trong các vở. Đó là bản vọng cổ. Có người cường điệu “không có bản vọng cố không thể trở thành một đêm hát cải lương…” Lời khẳng định trên có phần hơi quá, nhưng nghĩ kĩ lại cũng không sai. Tính hấp dẫn của một đêm diễn Cải lương không thể không nói tới sức thu hút kì diệu của bản vọng cổ. Được biết vào năm 1918 Ông Cao Văn Lầu đã sáng tác bản Dạ Cổ Hoài Lang, sau này trở thành bản vọng cổ. Dạ Cổ Hoài lang tiền thân của bản vọng cổ đã tạo ra một không khí mới cho nền ca nhạc cổ miền Nam. Từ đó trở đi, bất kì trong một vở Cải lương nào, bản vọng cổ vẫn là bản nhạc chủ đạo, thể hiện một cách đa dạng qua tất cả tình huống, trong một vở Cải lương.. Nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lão thành có mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong gánh Cải Lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Út Trà Ôn… Những người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày nay không ai là không biết đến như nghệ sĩ ưu tú Kim Cương, nghệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Hữu Phước, nghệ sĩ nhân dân Thanh Tòng, nghệ sĩ Việt Hùng… Sau nữa còn có nghệ sĩ Hùng Cường, nghệ sĩ ưu tú Bạch Tuyết, nghệ sĩ Thanh Sang, nghệ sĩ ưu tú Ngọc Giàu, nghệ sĩ ưu tú Lệ Thuỷ, nghệ sĩ Mộng Tuyền, nghệ sĩ Đỗ Quyên, nghệ sĩ Hoài Thanh… Và tiếp theo sau là thế hệ mới ngày nay người ta không thể quên có một Hương Lan con gái nghệ sĩ Hữu Phước. Vũ Linh. Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long… Bây giờ đã có Quế Trân con gái nghệ sĩ Thanh Tòng, Thị Trang, Lê Tứ… trong số nghệ sĩ lão thành và trẻ tuổi không thể kể hết. Ngày nay người ta vẫn yêu mến bộ môn này bởi vì bên cạnh những sân khấu kịch nghệ, sân khấu ca nhạc trẻ, sân khấu nghệ thuật cải lương đã luôn định hình trong lòng khán giả và còn tiếp tục đi tới trong việc bảo tồn, lưu giữ. Trong mấy năm sau này, những nghệ sĩ như Thanh Tòng, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết… có tổ chức những đêm cải lương diễn lại trích đoạn của nhiều tuồng đã được khán giả yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ cải lương. Những chương trình truyền hình như cánh chim không mỏi, Vầng trăng Cổ nhạc được đông đảo khán giả theo dõi. Hai đài truyền hình HTV7 và HTV9 thường xuyên phát sóng nhiều vở tuồng cải lương mới, cũ. Có dịp ra nước ngoài, người ta vẫn nghe tiếng hát của các nghệ sĩ trẻ Việt kiều hát cải lương hoặc bà con ở hải ngoại sẵn sàng bỏ một buổi làm việc để mua được tại phòng vé một chỗ xem trình diễn “cải lương” mà nghệ sĩ từ Việt Nam qua biểu diễn. Đặc biệt bên Pháp và bên Mỹ, cải lương rất thịnh hành. Nhiều nghệ sĩ cải lương tại hai nước đó, chẳng những diễn lại những vở tuồng xưa mà gần đây đã dàn dựng những vở mới. Như thế, “cải lương” quả đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. cải lương cũng đã được thay đổi qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời gian, với nhiều thử nghiệm. Tuy sinh sau đẻ muộn, so với hát chèo, hát bội hát tuồng, hát cải lương trong một thời gian ngắn đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam Bộ nói riêng, người Việt Nam nói chung và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam. Đề 83 – Thuyết minh về cải lương – nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam Bộ Việt giá bài viết Thuyết minh về cải lương – Bài số 1 Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu Nam ai, Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác. Ngưòi dân Nam bộ cũng hãnh diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn làm say lòng người. Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách khác miền Nam của nước Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền Nam có một đời sống nhàn hạ, sung túc. Ruộng cò bay thắng cánh. Cá đầy sông, rạch. Không lo đói nhờ đất đai phì nhiêu, rau và lúa gạo đầy đồng. Người miền Nam mang dòng máu của những dân đến sinh sống trẽn đất Nam kỳ đầu tiên. Dân ca miền Nam phối hợp nhừng đặc trưng của dân ca miền Bắc, miền Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của nhạc Cao Miên, Trung Hoa, Chàm. Do đó, dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như tiết tấu qua những điệu lý, điệu hò, nói thơ. Cải lương đầu thế kỉ XX, làm phong phú thêm cho những làn điệu dân ca đất phương Nam. Cùng vói sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới… sự ra đời Cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu của lịch sử. Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông nghiệp lúa nuớc và nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điểm thẩm mỹ phương Tây thì sự ra đời của Cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc và sự du nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ thuật cải lương là âm nhạc tài tử Nam bộ. Thời ấy, tuồng Hát bội không còn giữ vị trí độc tôn trong thưởng thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong các cuộc vui như lễ cưới, lễ hỏi, đám tiệc, đám giỗ… Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của cải lương là nhạc tài tử biến thành "ca ra bộ" tại nhà Ông Cai tổng Tống Hừu Định Ồng Phó 12 tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại oán với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, cô Ba Định, vai Nguyệt Nga, ông giáo Diệp Minh Kỷ đóng vai Bùi Kiệm, ông Giáo Du, vai Bùi ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sinh ra loại "Ca ra bộ". Sự khởi đầu của hình thức này được đánh dấu tại cuộc trình diễn của nhóm ca nhạc tài tử trên sân khấu hộp trong đó có cô Ba Đắc tại Hội chợ thuộc địa tại Pháp. Sau này ca ra bộ phát triển như một trào lưu tại Nam bộ. Tiết mục được trình diễn rất thô sơ trên một bộ ván gõ, diễn viên vừa ca, vừa diễn với điệu bộ, động tác minh họa. Ca ra bộ chính là gạch nối giừa hình thái âm nhạc và hình thái sân khấu. Sau này trở thành Hát cải lương. Sau đó nhờ những soạn giả như ông Trương Duy Toản, Mộc quán Nguyền Trọng Quyền,.. viết lại từng mảng các chuyện tích xưa để diễn ca ra bộ, với hình thức đối ca, liên ca rồi kết hợp lại thành những vở tuông Cải lương đâu tiên như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều… Cải lương hình thành và phát triên rât mau nhờ những đóng góp của những bậc tài danh như Năm Phỉ, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Nở, Phùng Há… Bước đầu hình thành, Cải lương giống như tên gọi cùng chịu ảnh hưởng đủ thứ nghệ thuật đầu Ngô mình Sơ. Tình trạng hỗn độn trong trang phục, hay phong cách diễn vẫn thường xảy ra; chẳng hạn diễn viên đóng Lừ Bố mang giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tàu, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm mât bản săc dân tộc dần dần bị đào thải. Nhờ các tác giả cỏ tri thức, có tài năng mà sân khâu cải lương hình thành hai dòng tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau này các nhà nghiên cứu sân khấu khẳng định là Cải lương có hai phương pháp phương pháp hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ, nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch nói là loại hình nghệ thuật mới thì Cải lương lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc qua phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua phương pháp tả thực tâm lý. Sân khấu Cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là đo kêt hợp một cách tài tình hai phương pháp hiện thực tâm lý và biểu hiện tả ý đó. Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam, mà còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt truyện do tác giả kịch bản đặt ra về nghệ thuật biểu diễn Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội, Dùng giọng thật, tự nhiên. Không có những giọng mé, giọng hầu Ban nhạc tài tử lúc hòa tâu ở phòng khách đàn hát sa-lông thường gồm có đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn độc huyền, sáo hay tiêu, mỗi thứ nhạc cụ chỉ có một. Có người hát thì thêm phách hay song lang. Khi trở thành dàn nhạc cải lương thì số lượng nhạc cụ trở thành quan trọng hơn trống ban, song lang, cặp não bạt, đồng la, đàn cò, đàn gáo, đàn kìm. đàn tam, đàn đoản, đàn tranh. Lại có thêm sáo, tiêu, kèn củn, kèn nàm. Sau này có thêm đàn độc huyền, đàn xến, ghi ta phím lõm còn gọi là lục huyên cầm, tam thập lục, vi-ô-lông, hạ uy cầm. Cây lục huyền câm hay ghi-ta phím lõm có nhiều khả năng về cung bực, âm thanh trâm bông lại có thẻ luyến láy do phím móc sâu. Từ 40 năm nay, ghi-ta phím lõm giữ vai trò chính trong dàn nhạc cải lương, và sau này đàn ghi ta phím lõm có gản điện giống ghi-ta điện. Ngoài dàn nhạc cổ, còn có thêm dàn nhạc Tây phương với piano, saxo, clarinette, trống, ghi-ta điện, và đàn synthé hay organ. Những bài, bản được nghe trong tuồng cải lương đều phát xuất từ dàn ca cổ nhạc miền Nam phần lớn, và những làn điệu trong nhạc đàn tài tử. Một loại nhạc thính phòng miền Nam. Có thể phân loại một số bài bản thông dụng như Từ những điệu ca dân gian như những điệu Lý chẳng hạn từ điệu Lý ngựa ô biến thành điệu cải lương 0 Mã 18 câu nhịp đôi. Từ những bài nhạc lễ cung đình trong hát bội sau được cải biên dùng trong cải lương như Vũ Biền Xuất Đôi, Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc,… Từ nhừng sáng tác mới sau này khi có ca ra bộ, hát cải lương như Văn Thiên Tường, Tứ Đại Oán, Trường Tương Tư, Lun Thủy Trường, Ái Tử Kê, Vọng cổ,… Từ những điệu hát lấy từ nhạc nước ngoài nhất là từ Trung Quốc, nhạc Quảng Đông xuỵên qua các bài Xang Xừ Líu, Khốc Hoàng Thiên, Liều Xuân Nương, Bản Tiều, Lạc Âm Thiều,… Đã nói đến sân khấu Cải lương, không thể nào không nói đến bản nhạc "đinh" trong các vở. Đó là bản vọng cổ. Có người cường điệu "không có bản vọng cố không thể trờ thành một đêm hát cải lương…" Lời khẳng định trên có phần hơi quá, nhưng nghĩ kỳ lại cũng không sai. Tính hấp dẫn của một đêm diễn Cải lương không thể không nói tới sức thu hút kỳ diệu của bản vọng cổ. Được biết vào năm 1918 ông Cao Văn Lầu đã sáng tác bản Dạ cô hoài lang, sau này trở thành bàn vọng cố. Dạ cổ hoài lang tiền thân của bản vọng cổ đã tạo ra một khône khí mới cho nền ca nhạc cổ miền Nam. Từ đó trở đi, bất kì trong một vở Cải lương nào, bản vọng cổ vẫn là bản nhạc chủ đạo, thể hiện một cách đa dạng qua tất cả tình huống, trong một vở Cải lương. Nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lào thành có mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong gánh Cải Lương của thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, út Trà Ôn. Nhừng người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày nay không ai là không biết đến như nghệ sĩ ưu tú Kim Cương, nshệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ út Bạch Lan, nghệ sĩ Hửu Phước, nghệ sĩ nhân dân Thanh Tòng, nghệ sĩ Việt Hùng… Sau nữa còn có nghệ sĩ Hùng Cường, nghệ sĩ ưu tú Bạch Tuyết, nghệ sĩ Thanh Sang, nghệ sĩ ưu tú Ngọc Giàu, nghệ sĩ ưu tú Lệ Thuỷ, nghệ sĩ Mộng Tuyền, nghẹ sĩ Đồ Quyên, nghệ sĩ Hoài Thanh… Và tiếp theo sau là thế hệ mới. Ngày nay neười ta không thể quên có một Hương Lan con gái nghệ sĩ Hữu Phước, Vũ Linh, Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long… Bây giờ đã có Quế Trân con gái nghệ sĩ Thanh Tòng, Thi Trang, Lê Tử… trong số nghệ sĩ lão thành và trẻ tuổi không thể kể hết. Ngày nay người ta vẫn yêu mến bộ môn này bởi vì bên cạnh những sân khấu kịch nghệ, sân khấu ca nhạc trẻ, sân khấu nghệ thuật Cải lương đã luôn định hình trong lòng khán giả và còn tiếp tục đi tới trong việc bảo tồn, lun giữ. Trong mấy năm sau này, những nghệ sĩ như Thanh Tòng, út Bạch Lan, Bạch Tuyết… có tổ chức những đêm Cải lương diễn lại trích đoạn của nhiều tuồng đã được khán giả yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ Cải lương. Những chương trình truyền hình như Cánh chim không mỏi, Vầng trăng cổ nhạc được đông đảo khản giả theo dõi. Hai đài truyền hình HTV7 và HTV9 thường xuyên phát sóng nhiều vở tuồng Cải lương mới, cũ. Có dịp ra nước ngoài, người ta vẫn nghe tiếng hát của các nghệ sĩ trẻ Việt kiều hát Cải lương hoặc bà con ở hải ngoại sẵn sàng bỏ một buổi làm việc đẻ mua được tại phòng vé một chồ xem trình diễn "Cải lương" mà nghệ sĩ từ Việt Nam qua biểu diễn. Đặc biệt ở Pháp và ở Mỹ, Cải lương rất thịnh hành. Nhiều nghệ sĩ Cải lương tại hai nước đó, chẳng những diễn lại những vở tuồng xưa mà gần đây đã dàn dựng những vở mới. Như thế, Cải lương quả đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cải lương cũng đã được thay đổi qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời gian, với nhiều thử nghiệm. Tuy sinh sau đẻ muộn, so với hát chèo, hát bội hát tuồng, hát cải lương trong một thời gian ngắn đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam bộ nói riêng, người Việt Nam nói chung và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam. Thuyết minh về cải lương – Bài số 2 Nói đến ca kịch dân tộc, người Việt Nam chúng ta có quyền hết sức tự hào. Chúng ta có hát bội tuồng, chèo, cải lương, dân ca kịch Khu Năm, dân ca kịch Trị Thiên Huế, và một số dân ca kịch địa phương. Chúng ta tự hào vì nền ca kịch của dân tộc ta có truyền thống, phong phú và đa dạng. Điều đó chứng tỏ khả năng thẩm mỹ và yêu cầu thẩm mỹ của nhân dân ta rất cao. Sân khấu cải lương là một ca kịch dân tộc. Nói đến ca kịch, trước hết phải đề cập đến âm nhạc, vì âm nhạc là xương sống, là linh hồn của kịch chủng. Mở đường vào Nam, bên cạnh gươm giáo búa rìu – những dụng cụ để chiến đấu và sản xuất – tổ tiên chúng ta còn mang theo một nền văn hóa, trong đó có một vốn nhạc phong phú bao gồm nhạc lễ còn gọi là nhạc tụng đình, nhạc đồng bóng, nhạc nhà chùa và nhạc hát bội; đây là chưa kể vốn nhạc dân gian dân ca truyền khẩu sẵn có trong nhân dân. Nền nhạc cổ của dân tộc ta có từ rất lâu đời. Lúc còn ở miền Bắc, Trung, cũng đã phát triển khá cao, có dàn nhạc, có ghi chép hẳn hòi chớ không phải ở mức làn điệu truyền khẩu. Bọn phong kiến dùng nền nhạc cổ này làm của riêng phục vụ chúng trong sinh hoạt vui chơi tế lễ và cúng bái. Vào Nam, nhạc lễ thường dùng trong các cuộc tế lễ, cúng đình, tế thần, và trong các đám ma chay. Tổ chức dàn nhạc lễ gồm bộ kéo, bộ gõ, bộ thổi. Vào Nam, xa triều đình, gần với quần chúng nhân dân, trong một sinh hoạt mới, đất mới, đối tượng mới, dòng nhạc lễ lần lần thay đổi chất và có điều kiện phát triển. Sự thay đổi chất này rất phù hợp với quy luật từ đối tượng trước kia là thần linh, chuyển sang đối tượng mới là quần chúng lao động, lần lần tự dòng nhạc lễ phải thay đổi chất; từ tính chất tế lễ, trang nghiêm chung chung, nhạc lễ chuyển chất mới và phát triển để phục vụ đối tượng mới. Sự thay đổi chất và phát triển đó biểu hiện như thế nào? Trong các đám cúng tế, ma chay kéo dài, quần chúng cần một kiểu sinh hoạt âm nhạc khác, ngoài nhạc lễ. Nhất là trong các đám ma chay kéo dài, gia chủ và người trong nhà cần cái gì khác, ngoài dàn nhạc lễ tấu lên ầm ĩ khi cúng bái. Do yêu cầu đó, nên sinh ra hình thức chơi đàn cây, nghĩa là cũng tấu những bài nhạc lễ, nhưng không dùng bộ gõ trống, thanh la, mõ, chập chỏa … và thổi kèn …, mà chỉ dùng bộ kéo cò, gáo … và bộ khảy kìm, sến, tranh … Sinh hoạt âm nhạc này chơi đàn cây được nhiều người ưa thích. Các tầng lớp nhân dân đều có tham gia. Người ta học đàn, học làn điệu, bài bản. Một số trí thức nho học, nhiều chiến sĩ bị an trí sau khi phong trào "Đông kinh nghĩa thục" thất bại, đã tham gia sinh hoạt âm nhạc này; ngoài những bài bản nhạc lễ sẵn có, họ sáng tác thêm bài bản làn điệu; nhưng quan trọng hơn cả, là họ đã sáng tác lời ca theo nhạc để diễn đạt và phản ánh được phần nào những tâm tư và ước vọng của quần chúng, cũng như tâm tư và ước vọng của chính tác giả. Tóm lại, sự thay đổi chất của dòng nhạc lễ là một sự chuyển biến rất hợp quy luật Văn nghệ phải phục vụ yêu cầu thẩm mỹ của đông đảo quần chúng lao động. Sự thay đổi chất biểu hiện rất rõ nét ở ba điểm thay đổi tổ chức dàn nhạc chỉ dùng bộ kéo và bộ khảy, sáng tác thêm bài bản mới, và sáng tác lời ca đưa yếu tố thanh nhạc cộng với khí nhạc. Bộ dây kéo và khảy, tách ra khỏi tổ chức của dàn nhạc lễ, qui mô nhỏ, phục vụ sinh hoạt tinh thần của quần chúng; dần dần mất hẳn mùi lễ bái và đi vào đời sống thiết thực cưới gả, tiệc tùng, đờn ca trong nhà hàng, đờn ca trong những đêm trăng sau những ngày lao động mệt nhọc. Phong trào phát triển ngày càng rộng, quần chúng tham gia ngày càng đông; nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phong trào đờn ca phát triển rất mạnh ở các tỉnh Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Bạc Liêu, Sài Gòn. Kỹ thuật diễn tấu, ca hát ngày càng điêu luyện. Danh từ "nhạc tài tử " ra đời. Nhạc tài tử tách ra khỏi nhạc lễ và từ đấy hai dòng nhạc song song tồn tại nhạc lễ chuyên về cúng tế, nên ngày càng héo hon già cỗi; nhạc tài tử đi vào quần chúng nhân dân, nên không ngừng được sáng tạo và bồi bổ. Từ nhạc tài tử cho đến khi chuyển thành hình thức "ca ra bộ", rồi nhảy lên sân khấu cải lương, qua một quá trình khá dài, dòng nhạc này, ngoài việc sử dụng một số bài nhạc lễ, đã phát triển nhờ ba nguồn chủ yếu – Một sử dụng, phối nhạc và nâng cao một số bài dân ca Nam Bộ như "Lý con sáo – Lý ngựa ô – Lý chuồn chuồn – Lý giao duyên …" – Hai sử dụng và cải biên một số bài nhạc cổ Trung Bộ như "Kim tiền Huế – Hành vân Huế …" – Ba sáng tác mới trên cơ sở âm điệu dân tộc. Loại này khá nhiều, như "Tây thi – Xuân tình – Ái tử kê – Phụng cầu – Văn thiên tường – Bình sa lạc nhạn – Dạ cổ hoài lang về sau là Vọng cổ…". Nội dung tình cảm của dòng nhạc này khá phong phú Loại giọng Bắc, với nhạc điệu vui tươi, thoải mái; loại giọng Oán có tính chất bi ai, buồn thảm; loại giọng Nam, có tính chất buồn man mác, nhẹ nhàng, không bi thảm. Có người phân biệt loại bài lớn trang nghiêm, trầm hùng và loại bài nhỏ vui tươi, nhí nhảnh. Từ khi nghệ thuật sân khấu cải lương được hình thành thì thuật ngữ "nhạc cải lương" mới ra đời. Vào sân khấu cải lương, do sự biến đổi của nội dung của các vở tuồng qua các thời kỳ, do quy luật chặt chẽ của nghệ thuật sân khấu nên nhạc tài tử phải sân khấu hóa" bài bản cắt xén hoặc thay đổi ít nhiều hình thức cấu trúc, tiết tấu được co giãn cho phù hợp với tiết tấu diễn xuất. Các nghệ sĩ ngày trước, dù không hoàn toàn tự giác, nhưng đã làm đúng theo quy luật nội dung thay đổi, hình thức tất nhiên phải thay đổi. Nhìn chung, qua một quá trình dài, chúng ta thấy nhạc cải lương có thay đổi và phát triển. Trong sự phát triển đó, có cái đúng và có cái sai. Có thể tóm tắt như sau – Một là, các nghệ sĩ đã dựa trên âm điệu dân tộc, sáng tác thêm rất nhiều bài mới, phục vụ tốt cho nội dung vở tuồng, phù hợp với kịch tính sân khấu, khắc họa được tính cách nhân vật. Đây là cách làm tốt và đúng. – Hai là các nghệ sĩ đã "Việt Nam hóa" một số bài Quảng Đông, mà âm điệu gần gũi với ta. Đây cũng là một cách làm đúng; quy luật này cũng như quy luật phát triển của ngôn ngữ Việt Nam hóa một số từ của nước ngoài như xà bông, ô-tô, nhà ga … . Người xưa cũng có nêu một nguyên tắc "Đứng trong truyền thống, tiếp thu bên ngoài, tìm cái tương đồng, lấy cái sở trường, bỏ cái sở đoản, làm giàu bài bản, lập thành lưu phái". – Ba là, lấy nguyên xi nhạc nước ngoài, bất chấp âm điệu, đặt lời ca, rồi lắp vào sân khấu cải lương. Đây là một cách làm không đúng, làm cho nhạc dân tộc bị lai căng, mất gốc. – Bốn là, về mặt sử dụng nhạc cụ. Các nghệ sĩ đã có công rất lớn trong việc cải tiến nhạc cụ dân tộc và tìm cách sử dụng nhạc cụ Tây phương một cách sáng tạo, làm cho âm sắc của nhạc cụ thêm đẹp và phong phú. Ví dụ năm 1920, thầy giáo Tiên Rạch Giá móc phím cây guitare espangol và cây mandoline để đờn các bản nhạc cải lương – Năm 1925, anh Sáu Tài sử dụng cây violon để đờn nhạc cổ. Theo ông Vương Hồng Sển, thầy Bảy Cảnh ở Sóc Trăng, sử dụng cây violon đầu tiên và thầy Bảy Thông là người đầu tiên sử dụng cây mandoline – Năm 1927, anh Bảy Thạch cho nhập cây guitare hawaienne vào dàn nhạc cải lương, và anh Sáu Hiệu bổ sung cây violoncelle để tăng thêm âm trầm cho dàn nhạc… Điểm lại tình hình phát triển của nhạc cải lương, chúng ta thấy đó là một quá trình kế thừa và phát triển truyền thống âm nhạc dân tộc từ thấp đến cao một cách khá rõ nét từ nội dung bài bản đến tổ chức dàn nhạc cải cách nhạc cụ dân tộc và bổ sung nhạc cụ Tây phương có sáng tạo, đồng thời chứng tỏ một quá trình dài lao động sáng tạo nghệ thuật của nhiều lớp nghệ thuật của nhiều lớp nghệ sĩ, dù rằng trong quá trình phát triển, cũng có một số lệch lạc. Nhìn lại nhạc trong sân khấu cải lương hiện nay, chúng ta thấy – Về bài bản, ngoài những bài bản sẵn có, có những bài bản mới sáng tác thường đệm bằng dàn nhạc mới "JAZZ" chen vào bài Vọng cổ, gọi là "tân cổ giao duyên". Cách làm này không sai, nếu nội dung kịch tính, tâm trạng nhân vật đòi hỏi phải có một điệu nhạc thích hợp và bản thân điệu nhạc đó phải được sáng tác trên cơ sở âm điệu dân tộc. Hiện nay, theo chúng tôi, nhiều bài sáng tác loại này cũng tốt. Nhưng rất tiếc là cũng còn một số bài sáng tác mang âm điệu Tây phương khá đậm nét; một số nhân vật lịch sử mang hia, đội mão, cầm gươm giáo mà ca những bài loại này, đệm bằng saxophone, trompette thì nghe thật không hợp, nếu không muốn nói chướng tai. Lại có trường hợp, nội dung kịch tính, tâm tình nhân vật không đòi hỏi phải có bài sáng tác mới, nhưng vì muốn, hoặc phô trương giọng ca của diễn viên, hoặc gây một "cảm giác lạ", nên cũng ca một bài mới, ở cuối bài giọng ca vút lên cao, dồn dập để rồi "vô Vọng cổ" cho ngọt. Cộng vào đó, lúc "vô Vọng cổ" phựt đèn màu, hoặc sử dụng ánh sáng lập lòe xanh, đỏ, vàng, tím để mua những tràng vỗ tay rẻ tiền – Có đoạn nhân vật "Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga" gặp nhau, dàn nhạc dùng cây guitare espangol nguyên xi, không móc phím chạy một nét nhạc hoàn toàn mô-đéc! Hoặc chuẩn bị mở màn mà hầu như màn nào cũng vậy thì tự nhiên dàn nhạc mới saxophon, trompette, trống Jazz lớn nhỏ, guitare espangol có gắn loa to ré lên, ầm ĩ. Khán giả tưởng rằng mở màn sẽ có cảnh phong ba bão táp,hóa ra chỉ có hai nhân vật ngồi trao đổi một cách bình tĩnh về chuyện đời. Đóng màn cũng vậy. Tệ hơn nữa là trong màn "Bùi Kiệm dê Nguyệt Nga", Nguyệt Nga bỏ trốn, Kiệm đứng khóc hi hi, đóng màn, dàn nhạc Jazz lại trỗi lên ầm ĩ bài "Bác đang cùng chúng cháu hành quân", vừa lạc điệu, vừa chối tai, vừa bực bội! – Về dàn nhạc hiện nay ở hầu hết các đoàn cải lương đều chia thành hai bộ phận; bộ phận cổ gồm kìm, cò, tranh, độc huyền, sến, tam, đoản … Thường thường là bốn, năm nhạc cụ. Bộ phận mới gồm saxophone, clarinette, trompette, trống Jazz lớn nhỏ, … Có đoàn dùng cả piano, accordéon. Việc đưa nhạc cụ Tây phương vào dàn nhạc cải lương, chúng tôi không phản đối, nhưng cần nghiên cứu kỹ âm sắc của nhạc cụ đó có hợp với nhạc dân tộc không? Với vở đề tài lịch sử và vở đề tài hiện đại, có nên rập khuôn dùng nhạc cụ Tây phương để đệm những cao trào không? Quân Trưng Trắc đánh nhau với quân Tàu phong kiến mà đệm bằng dàn nhạc Tây phương chắc chắn là không đúng và không gây hiệu quả bằng trống, chiêng, thanh la, chập chõa. Chúng ta không có ý định lập lại lịch sử nguyên xi – muốn thế cũng không được, mà sân khấu cũng không cần thế – nhưng trong một vở thuộc về thời đại nào, toàn bộ kịch bản văn học, y trang, phông cảnh, âm nhạc… đều phải góp phần thể hiện cho được không khí lịch sử của thời đại ấy. Sân khấu là một tổng thể hoàn chỉnh, kể từ khi mở màn đầu cho đến lúc đóng màn cuối cùng, nhằm nói với khán giả những vấn đề cụ thể trong một thời đại cụ thể. Do đó, toàn bộ các bộ môn tổng hợp trong một vở diễn phải chu tuần vào một mục tiêu chung, góp phần làm cho vở diễn đạt được tính toàn vẹn. Riêng âm nhạc, từng bài bản có nội dung riêng của nó. Cộng với lời ca, toàn bộ thiết kế nhạc bài ca và nhạc đệm của một vở diễn phải phục tùng mục tiêu chung của toàn vở, khắc họa cho được tính cách của nhân vật, diễn đạt cho được tình cảm của nhân vật và nội dung kịch tính, và gợi cho được không khí lịch sử của thời đại mà kịch bản miêu tả. Do đó, toàn bộ thiết kế nhạc phải mang nội dung nhất định, chớ không thể chỉ có tác dụng giải trí và khoe khoang giọng ca của diễn viên. Chính vì từng bài bản có nội dung riêng của nó, nên soạn giả, khi chọn bài bản cho các nhân vật ca, cũng cần nghiên cứu kỹ chỗ nào nên ca bài nào, chớ không nên lúc nào cũng cố nhét Vọng cổ vào, mặc dầu Vọng cổ là một bài rất được quần chúng yêu thích. Khi vì quần chúng yêu thích mà biến bài Vọng cổ thành "vua độc tôn" trong một vở diễn. Làm như vậy, vừa không diễn đạt đúng kịch tính và tâm trạng của nhân vật, vừa làm nghèo nàn yêu cầu thẩm mỹ của quần chúng. Trong một vở diễn, từ màn này sang màn kia – từ mẩu đời này sang mẩu đời khác – tất yếu có một đường dây nối liền. Thủ pháp sân khấu để nối liền … những "mẩu đời" ấy có nhiều. Nhưng khó chấp nhận cách mà hiện nay hầu hết các đoàn đang dùng đóng màn, trỗi một bài nhạc cách mạng với phong cách "xập xình" theo kiểu nhạc Jazz cũ. Nhất là đối với một số bài như "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" mà lời và nhạc đã trở thành "máu xương" của "lớp người Trường Sơn" thì càng không thể chấp nhận cho tấu lên sau khi hạ màn "Bùi Kiệm dê Nguyệt Nga"? Về tổ chức dàn nhạc cải lương, một số đoàn Giải phóng đã làm một việc tốt Ngoài những nhạc cụ dân tộc sẵn có, các đoàn đã sử dụng nhạc cụ Tây phương có cải tiến ghita móc phím, violon, violoncelle, đồng thời cải cách một số nhạc cụ đàn đại hồ, đàn tranh to dùng dây tơ, đàn kìm thùng to … làm cho âm sắc của dàn nhạc thêm phong phú, có thể diễn đạt nhiều khía cạnh tình cảm trong một vở diễn. Trong một số vở diễn đề tài hiện đại, ví dụ cảnh ăn chơi trong một bar – dancing ở một thành phố lớn bị tạm chiếm, việc sử dụng một số nhạc cụ của dàn nhạc Jazz cũng không phải là không nên, miễn là có nghiên cứu, chọn lọc. Tóm lại, việc tận dụng những nhạc cụ dân tộc, cải tiến nó, và nếu quả thật cần thiết, phối hợp với một vài nhạc cụ Tây phương thích hợp vẫn là việc làm tốt và đúng. Chúng ta cần hết sức đề cao dàn nhạc dân tộc, làm sao lớp trẻ yêu thích nhạc dân tộc cả nội dung nhạc và hình thức dân tộc của dàn nhạc, loại trừ dần tâm lý "ngồi trước cây piano coi sang trọng hơn ngồi trước cây đàn độc huyền hay ôm một cây đàn kìm "cổ lỗ sĩ". Các đoàn Văn công của ta đã mang dàn nhạc dân tộc đi biểu diễn ở hầu hết các nước trên thế giới. Cây độc huyền, cây đàn tranh … nói chung là nhạc dân tộc có cải tiến đã làm rung động trái tim của hàng triệu triệu người. Đó là kinh nghiệm quý báu mà các Đoàn cải lương nên tham khảo. Tôi là người yêu nhạc cải lương. Vì rất yêu nên tôi mong muốn có một nền nhạc cải lương luôn luôn sáng tạo và phát triển. Phát triển trên cơ sở kế thừa và có phê phán. Không bảo thủ cho rằng vốn nhạc cải lương bây giờ là tuyệt đỉnh, không vội vàng phát triển thô bạo, sáng tạo bừa bãi, chúng tôi xin mạnh dạn phát biểu vài suy nghĩ, mong góp được một phần nhỏ mọn với sân khấu cải lương để phục vụ ngày một tốt hơn, và góp phần xây dựng, nâng cao thẩm mỹ của đông đảo nhân dân lao động. Nguyễn Tuyến tổng hợp 7 quyển sách hay về cải lương giúp người đọc hôm nay nhớ và hiểu về một thời vàng son của nghệ thuật cải lương. Từ đó góp phần gìn giữ, lưu truyền và bảo tồn loại hình văn hóa nghệ thuật đầy đặc sắc này.“Tuy mới hình thành được gần 100 năm nhưng cải lương đã có một chỗ đứng trong lãnh vực âm nhạc cổ truyền Việt Nam”.Bằng cách vào đề hấp dẫn, những suy luận khúc chiết, cách trình bày theo thứ tự thời gian rõ ràng, Bước đường của cải lương của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh đã dần vén mở hai vấn đề cốt lõi được nhiều người quan tâm khi nhắc đến bộ môn nghệ thuật này thời gian xuất hiện và nguồn gốc của cải lương. Đặc biệt, với những tư liệu quý báu mà tác giả tìm tòi nghiên cứu và hình ảnh minh họa sinh động, cuốn sách sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ thêm về cải lương và bài Dạ cổ hoài lang mà nhiều người vẫn thuộc nằm cầu kỳ hoa mỹ trong việc sử dụng từ ngữ, không ồn ào đả kích, không mở ra những cuộc tranh luận gay gắt sôi nổi, tác giả chỉ nói những gì mình biết và mình tin là đúng, nói một cách nhẹ nhàng và thuyết phục, chính điều đó tạo nên sự hấp dẫn trong Bước đường của cải lương của Nguyễn Tuấn Chuyện Cải Lương Thật Và ĐẹpCuốn sách ngắn này ghi lại những kỷ niệm và hồi ức về nghệ thuật Cải Lương, được thực hiện bởi hai nghiên cứu viên lịch sử truyền khẩu từ Hội đồng Anh là Hugo Frey và Suzanne Joinson qua 10 ngày làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai vào tháng 4/2019. Khung phương pháp luận được sử dụng ở đây là dẫn dắt cho các lời kể cũng như khuyến khích chia sẻ các ký ức một cách cởi mở. Mỗi buổi phỏng vấn đều được quay phim và tường thuật. Rất nhiều phiên phỏng vấn kéo dài hơn 40 phút, được hỗ trợ bởi một phiên dịch viên, và có một phim tài liệ đi Chút Tạ Tình Tri ÂmCuốn bút ký chân dung Châu, Chút Tạ Tình Tri Âm mà quý bạn đọc đang cầm trên tay là kết quả của quá trình “thai nghén” suốt nhiều năm đầy trăn trở, suy tư của người viết. Thậm chí, người viết từng nhiều lần tự hỏi liệu có ai sẽ mua, sẽ đọc cuốn sách này khi nó chẳng chứa những câu chuyện hứa hẹn “câu khách”, khi sân khấu cải lương đang loay hoay lần tìm ánh sáng cuối đường bút ký được viết bằng giọng văn thủ thỉ tâm tình, hồn hậu như gói cả sông nước mây trời miền Tây; từ chuyện ngôi sao nhí Mỹ Châu tỏa những tia sáng đầu tiên bên bến sông quê vào năm 7 tuổi, đến chuyện nàng làm đào chánh ở tuổi 14 nơi Sài Gòn phồn hoa đô hội, đến chuyện nàng thành “triệu phú” ở tuổi 17, sắm xe hơi, xây nhà lầu dễ như chơi, vàng bạc đầy nhà. Tất cả cũng vì ngày ấy, cải lương là món “độc” theo cả nghĩa độc đáo lẫn độc tôn. Tất cả cũng vì nàng là ngôi sao sáng lạ giữa những ngôi sao thuộc thế hệ vàng của cải lương Việt Nam. Tất cả cũng vì bao trái tim người mộ điệu “ghiền” nàng chết mê chết mệt, tôn vinh nàng là “nữ hoàng kiếm hiệp”..Hồi ký 50 Năm Mê Hát, Năm Mươi Năm Cải LươngHồi Ký 50 Năm Mê Hát, Năm Mươi Năm Cải Lương là cuốn sách được viết bằng tâm huyết của học giả Vương Hồng Sển với nửa thế kỷ say mê nghệ thuật cải lương Nam Bộ với tất cả tấm lòng và trái tim. Lúc trước Vương Hồng Sển là một công chức, nhưng sau ông về hưu sớm để chuyên tâm về văn nghệ. Hồi Ký 50 Năm Mê Hát của Vương Hồng Sển in lần thứ nhất vào năm sách này đặc biệt ở chỗ tác giả không nói nhiều về đời tư mà đề cập đến lịch sử cải lương Nam Bộ từ ngày sơ khai đến thời hoàng kim, cực thịnh qua cái nhìn, cách sống của một con người yêu môn nghệ thuật giả tự nhận là mê cải lương, tuồng tích, đào kép với sự bồng bột năm 12 tuổi lẫn cái xao động năm 16 tuổi và sự say mê của cả một đời người. Tuy vậy, cái sự “mê” của cụ Vương rất có bài bản và ý thức rõ ràng trong việc phải lưu giữ trên trang viết những gì ông trải qua, được chứng kiến về một giai đoạn phát triển đặc biệt của cải lương. Một giai đoạn đã trôi qua và không bao giờ trở lại trong lịch sử văn hóa của dân tộc. Ông giữ cả từng tấm vé, thiệp mời đi xem hát, tấm quảng cáo lịch trình giờ diễn, thiệp mời..Nghệ Thuật Sân Khấu Hát Bội, Đờn Ca Tài Tử Và Cải Lương Ở Sài Gòn Và Nam Kỳ Cuối Thế Kỷ XIX Đến 1945Nghệ thuật sân khấu Hát bội, đờn ca tài tử và cải lương ở Sài Gòn và Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đến 1945 dựa trên một số tư liệu sách báo nhằm mục đích phác họa cho độc giả thấy bối cảnh và sự phát triển của các loại hình nghệ thuật sân khấu như hát bội, nhạc tài tử, ca ra bộ, cải lương và sự phong phú của lịch sử nghệ thuật sân khấu ở Sài Gòn nói riêng và Nam Kỳ nói chung trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến Bội, Đờn Ca Tài Tử Và Cải Lương Cuối Thế Kỷ 19 Đầu Thế Kỷ 20Năm 1889 lần đầu tiên hát bội diễn ở Pháp đã gây sự tò mò thích thú từ quần chúng đến giới nghệ thuật. Sự đặc thù cuốn hút của nghệ thuận này đã khiến nhạc sĩ – nhà dân tộc nhạc học, ông Julien Tiersot đã ghi lại các nhạc cụ và âm nhạc hát bội, nhạc sĩ Claude Debussy sau khi nghe tuồng hát bội thì âm nhạc sang tác sau này của ông có sự ảnh hưởng nhạc hát bội Việt người thường mặc định hát chèo là văn hoá đặc thù của người miền Bắc, hát bội, hát tài tử và cải lương là văn hoá của người dân Nam bộ. Thực ra nhạc tài tử có nguồn gốc từ nhạc Cung đình Huế, cải lương ra đời là sự kết tinh và sang tạo từ nhiều hình thái nghệ thuật như hát bội, đờn ca tài tử, ca ra bộ, kịch nói và cả âm nhạc Tây tình yêu nghệ thuật cổ truyền, nhà nghiên cứu Nguyễn Lê Tuyên – Giảng viên của trường Đại học Quốc gia Úc và Nguyễn Đức Hiệp đã kế thừa và tiếp cận các nguồn tài liệu đáng tin cậy để có có một “công trình nghiên cứu” nho nhỏ giúp chúng ta hiểu thêm về loại hình văn hoá dân tộc đặc sắc Khấu Cải Lương Nam BộTác giả là một người mê cải lương. Rất mê là đằng khác. Tập sách này là tình cảm của tác giả dành cho cải lương… nên đầy tâm huyết. Sách giới thiệu về sự ra đời của sân khấu cải lương Nam Bộ, Những chặng đường của cải lương Nam Bộ; Sự xuất hiện của cải lương Miền Trung – Miền Bắc. Thuyết minh về cải lương – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bình Thuận Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu Nam ai, Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác. Người dân Nam Bộ cũng hãnh diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn làm say lòng ngưòi. Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách khác Miền Nam của xứ Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền Nam có một đời sống nhàn hạ, sung túc. Ruộng cò bay thẳng cánh. Cá đầy sông, rạch. Không lo đói nhờ đất đai phì nhiêu, rau và lúa gạo đầy đồng. Người miền Nam mang dòng máu của những dân đến sinh sống trên đất Nam kỳ đầu tiên. Dân ca miền Nam phối hợp những đặc trưng của dân ca miền Bắc miền Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của nhạc Cao Miên, Trung Hoa, Chàm. Do đó, dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như tiết tấu qua những điệu lý, điệu hò, nói thơ. Cải lương đầu thế kỷ XX, làm phong phú thêm cho những làn điệu dân ca đất phương Nam. Cùng với sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới… sự ra đời. Cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu của lịch sử. Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông nghiệp lúa nước và nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điếm thẩm mỹ phương Tây thì sự ra đời của Cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc và sự du nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ thuật cải lương lá âm nhạc tài tử Nam Bộ. Thời ấy, Tuồng Hát bội không còn giữ vị trí độc tôn trong thường thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong các cuộc vui như lễ cưới, lễ hỏi, đám tiệc, đám giỗ… Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của Cải Lương là nhạc tài tử biến thành "ca ra bộ" tại nhà Ổng Cai tổng Tống Hữu Định Ông Phó 12 tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại oán với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, Cô Ba Định, vai Nguyệt Nga, ông giáo Diệp Minh Ký đóng vai Bùi Kiệm, ông Giáo Du, vai Bùi Ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sinh ra loại "Ca ra bộ". Sự khởi đầu của hình thức này được đánh dấu tại cuộc trình diễn của nhóm ca nhạc tài tử trên sân khấu hộp trong đó có cô Ba Đắc tại Hội chợ thuộc địa tại Pháp. Sau này ca ra bộ phát triển như một trào lưu tại Nam bộ. Tiết mục được trình diễn rất thô sơ trên một bộ ván gỗ, diễn viên vừa ca, vừa diễn với điệu bộ, động tác minh họa. Ca ra bộ chính là gạch nối giữa hình thái âm nhạc và hình thái sân khâu. Và sau này trở thành Hát cải lương. Sau đó nhờ những soạn giả như ông Trương Duy Toàn, Mộc quán Nguyễn Trọng Quyền… viết lại từng mảng các chuyện tích xưa để diễn ca ra bộ, với hình thức đối ca, liên ca rồi kết hợp lại thành những vở tuồng Cải lương đầu tiên như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều… Cải lương hình thành và phát triển rất mau nhờ những đóng góp cùa những bậc tài danh như Năm Phi, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Nờ, Phùng Há… Bước đầu hình thành, Cải lương giống như tên gọi cũng chịu ảnh hưởng đủ thứ nghệ thuật đầu Ngô mình Sở. Tình trạng hỗn độn trong trang phục, hay phong cách diễn vẫn thường xảy ra; chẳng hạn diễn viên đóng Lã Bố mang giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tau, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm mất bản sắc dân gian dần bị đào thải. Nhờ các tác giá có tri thức, có tài năng mà sân khâu cải lương hình thành hai dòng tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau này các nhà cứu sân khấu khẳng định là Cải lương có hai phương pháp phương pháp hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ, nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch nói là loại nghệ thuật mới thì Cải lương lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc của phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua phương pháp tả thực tâm lí sân khấu Cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là do kết hợp một cách tài tình phương pháp hiện thực tâm lý và biểu hiện tả ý đó. Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam mà còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt truyện do tác giả kịch bản đặt ra. Về nghệ thuật biểu diễn Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội. Dùng giọng thật, tự nhiên. Không có những giọng mé, giọng hầu.. nhạc tài tử lúc hòa tấu ở phòng khách đàn hát sa-lông thường gồm có đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn độc huyền, sáo hay tiêu, mỗi thứ nhạc cụ chi có một. Có người hát thì thêm phách hay song lang. Khi trở thành dàn nhạc cải thì số lưọng nhạc cụ trở thành quan trọng hơn trống ban, song lang, cặp não bạt, đổng la, đàn cò, đàn gáo, đàn kìm, đàn tam, đàn đoản, đàn tranh. Lại thêm sáo, tiêu, kèn cùn, kèn nàm. Sau này có thêm đàn độc huyền, đàn xến, ghi ta phím lõm còn gọi là lục huyền cầm, tam thập lục, vi-ô-lông, hạ uy cấm. Cây lục huyền cầm hay ghi-ta phím lõm có nhiều khả năng về cung bậc, âm thanh trầm bổng lại có thể luyến láy do phím móc sâu. Từ 40 năm nay, ghi-ta phím lõm giữ vai trò chính trong dàn nhạc cải lương, và sau này đàn ghi ta phím lõm có gắn điện giống ghi-ta điện. Ngoài dàn nhạc cổ, còn có thêm dàn nhạc Tây phương với piano, saxo, clarinette, trống, ghi-ta điện, và đàn synthé hay organ. Những bài bản được nghe trong tuồng cải lương đều phát xuất từ dân ca nhạc miền Nam phần lớn, và những làn điệu trong nhạc đàn tài từ, một loại nhạc thính phòng miền Nam. Có thể phân loại một số bài bản thông dụng. Từ những điệu ca dân gian như những điệu Lý chẳng hạn từ điệu Lý ngựa ô biến thành điệu cải lương Ô Mã 18 câu nhịp đôi. Từ những bài nhạc lễ đình trong hát bội sau được cải biên dùng trong cải lương như Vũ Biển Đôi, Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đào, Ngũ Đôì Thượng, Ngũ Đối Hạ, Đăng, Tiếu Khúc, Từ những sáng tác mới sau này khi có ca ra bộ, hát lương như Văn Thiên Tường, Tứ Đại Oán, Trường Tương Tư, Lưu Trường, Ái Tử Kê, Vọng Cổ, vv… Từ những điệu hát lấy từ nhạc nước người nhất là từ Trung Quốc, nhạc Quảng Đông xuyên qua các bài Xang Xù Lâu Khốc Hoàng Thiên, Liễu Xuân Nương, Bán Tiểu, Lạc Âm Thiều, Đã nói đến sân khấu Cải lương, không thể nào không nói đến bản “đinh” trong các vở. Đó là bản vọng cổ. Có người cường điệu "không có bản vọng cổ không thể trở thành một đêm hát cải lương… "Lời khẳng định trên có phần hơi quá, nhưng nghĩ kỹ lại cũng không sai. Tính hấp dẫn của một đêm diễn Cải lương không thể không nói tới sức thu hút kỳ diệu của bản vọng cổ. Được biết vào năm 1918 ông Cao Văn Lầu đã sáng tác bản Dạ Cố Hoài La sau này trở thành bản vọng cổ. Dạ Cổ Hoài Lang tiền thân của bản vọng cổ để tạo ra một không khí mới cho nền ca nhạc cổ miền Nam. Từ đó trở đi, bất kỳ trong một vở Cái lương nào, bản vọng cổ vẫn là bản nhạc chủ đạo, thể một cách đa dạng qua tất cả tình huống, trong một vở Cải lương. Nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lão thành có mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong gánh Cải Lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Thuận như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phi, Báy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Út Trì Ôn… Những người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày nay không ai là không biết đến như nghệ sĩ ưu tú Kim Cương nghệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Hùng Phước, nghệ sĩ nhân dân Thanh Tòng, nghệ sĩ Việt Hùng… Sau nữa còn nghệ sĩ Hùng Cường, nghệ sĩ ưu tú Bạch Tuyết, nghệ sĩ Thanh Sang, nghe ưu tú Ngọc Giàu, nghệ sĩ ưu tú Lệ Thuý, nghệ sĩ Mộng Tuyển, nghệ sĩ Đỗ Quyên, nghệ sĩ Hoài Thanh… Và tiếp theo sau là thế hệ mới ngày nay người không thế quên có một Hương Lan con gái nghệ sĩ Hữu Phước, Vũ Linh, Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long… Bây giờ đã có Quê Trân con gái nghệ sĩ Thanh Tòng, Thi Trang, Lê Tứ… trong số nghệ sĩ lão thành và trẻ tuổi khỏi thế kể hết. Ngày nay người ta vẫn yêu mến bộ môn này bởi vì bên cạnh những sân khấu kịch nghệ, sân khấu ca nhạc trẻ, sân khấu nghệ thuật. Cải lương đã luôn hình trong lòng khán giả và còn tiếp tục đi tới trong việc bảo tổn, lưu giữ. Trong mấy năm sau này, những nghệ sĩ như Thanh Tòng, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết… có tổ chức những đêm Cải lương diễn lại trích đoạn của nhiều tuồng đã được khán giả yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ Cải lương. Những chương trình truyền hình như Cánh chim không mỏi, Vầng trăng Cổ nhạc được đông đảo khán giả theo dõi. Hai đài truyền hình HTV7 và HTV9 thường xuyên phát sóng nhiều vở tuồng Cải lương mới, cũ. Có dịp ra ngoài, người ta vẫn nghe tiếng hát cùa các nghệ sĩ trẻ Việt kiều hát Cải lương hoặc bà con ở hải ngoại sẵn sàng bỏ một buổi làm việc để mua cho được ở phòng vé một chỗ xem trình diễn "Cải lương" mà nghệ sĩ từ Việt Nam qua diễn. Đặc biệt bên Pháp và bên Mỹ, Cải lương rất thịnh hành. Nhiều nghệ sĩ cải lương tại hai nước đó, chẳng những diễn lại những vờ tuồng xưa mà gần đã dàn dựng những vở mới. Như thế "Cải lương" quả đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cải lương cũng đã được thay đổi qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời với nhiều thử nghiệm. Tuy sinh sau đẻ muộn, so với hát chèo, hát bội hát tuổng, hát cải lương trong một thời gian ngắn đã đi một bước rất dài, đi vào trong lòng người dân Nam bộ nói riêng, người Việt Nam nói chung và trở thành một truyền thông vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam. Thu Thủy Tổng hợp

thuyết trình về cải lương